(SGTT) – Để duy trì đà tăng trưởng và thu hút du khách quốc tế, theo các chuyên gia, Việt Nam cần định hướng phát triển sản phẩm du lịch theo chiến lược dài hạn, tập trung vào chất lượng và sự khác biệt. Trong đó, du lịch văn hóa, du lịch xanh và du lịch nghỉ dưỡng cao cấp kết hợp chăm sóc sức khỏe là những dòng sản phẩm giàu tiềm năng. Việc đầu tư bài bản vào các loại hình này không chỉ giúp nâng cao sức cạnh tranh mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của ngành du lịch.
Theo Cục Du lịch Quốc gia, năm 2024, ngành du lịch Việt Nam đón 17,6 triệu lượt khách quốc tế, đạt 98% so với cùng kỳ năm 2019. Mức tăng trưởng này tương đương với sự phục hồi chung của du lịch thế giới (99%) và cao hơn đáng kể so với mức phục hồi trung bình của khu vực châu Á - Thái Bình Dương (87%) so với thời điểm trước khi dịch Covid-19 bùng phát.
Trong khu vực Đông Nam Á, du lịch Việt Nam ghi nhận mức độ phục hồi tốt nhất, vượt qua nhiều điểm đến nổi tiếng như Malaysia (94%), Thái Lan (88%), Singapore (86%), Indonesia (86%), Philippines (72%)... Bước sang năm 2025, ngành du lịch Việt Nam đặt mục tiêu đón từ 22 - 23 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ 120 - 130 triệu lượt khách nội địa, với tổng thu từ du lịch ước tính đạt khoảng 980 - 1.050 ngàn tỉ đồng.
Du khách quốc tế tại Hà Giang. Ảnh: Đăng Huy
Để duy trì đà tăng trưởng, thu hút du khách quốc tế và phát triển du lịch một cách bền vững và hiệu quả, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần xây dựng sản phẩm theo hướng dài hạn, tập trung vào chất lượng và sự khác biệt, thay vì chỉ chạy theo trào lưu, xu hướng ngắn hạn.
Trong đó, ba dòng sản phẩm giàu tiềm năng và cần được đầu tư bài bản gồm du lịch văn hóa, khai thác giá trị di sản và bản sắc địa phương; du lịch xanh - hướng đến bảo tồn thiên nhiên và giảm tác động môi trường; du lịch nghỉ dưỡng cao cấp kết hợp chăm sóc sức khỏe, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của du khách quốc tế.
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, trước dịch Covid-19, du lịch văn hóa chiếm 37% du lịch toàn cầu và dự báo tăng 15% mỗi năm. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến 2030 cũng xác định du lịch văn hóa là trọng tâm, gắn với bảo tồn di sản và lịch sử, nhằm tạo ra sản phẩm độc đáo, nâng cao lợi thế cạnh tranh và xây dựng thương hiệu du lịch quốc gia.
Thực tế, Việt Nam sở hữu kho tàng văn hóa phong phú, từ các di sản UNESCO như cố đô Huế, phố cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn… cho đến các lễ hội truyền thống, làng nghề và đời sống sinh hoạt đặc trưng của từng vùng miền. Những yếu tố này có thể tạo nên các sản phẩm du lịch đặc trưng, thu hút du khách quốc tế yêu thích khám phá văn hóa bản địa.
Theo ông Trần Trung Quảng, Tổng Quản lý Fleur de Lys Hotel Quy Nhơn, du khách ngày nay không chỉ muốn tham quan mà còn mong muốn có những trải nghiệm sâu sắc hơn. Ông nhận định du khách muốn tìm hiểu về lịch sử, con người, những câu chuyện phía sau từng công trình, từng nét văn hóa. "Nếu chúng ta biết cách kể chuyện một cách hấp dẫn, mỗi điểm đến sẽ trở nên sống động và đáng nhớ hơn", ông nói.
Du khách trải nghiệm làm nón lá Làng Chuông, Hà Nội. Ảnh: Vương Lộc
Tuy nhiên, du lịch văn hóa tại Việt Nam vẫn còn một số hạn chế. Ông Trần Quang Trung, Giám đốc Công ty WorldTrans (chi nhánh Đà Nẵng), cho rằng nhiều địa phương mới chỉ dừng lại ở việc tổ chức lễ hội hàng năm mà chưa thực sự tạo ra những trải nghiệm mang tính tương tác cao.
Ông nhấn mạnh “Du lịch văn hóa không thể chỉ là tham quan mà phải tạo cơ hội để du khách hòa mình vào đời sống bản địa, từ học nghề truyền thống, tham gia các hoạt động tín ngưỡng đến thưởng thức nghệ thuật dân gian một cách sống động”.
Theo ông Trung, việc xây dựng sản phẩm du lịch cần dựa trên bản sắc văn hóa riêng của từng vùng miền, tránh sao chép hoặc rập khuôn. Đồng thời, cần đầu tư bài bản để tạo ra những sản phẩm có chiều sâu và giá trị bền vững, thay vì phát triển manh mún, ngắn hạn.
Trên thực tế, một số mô hình khai thác văn hóa bản địa đã đạt được thành công nhất định, như trải nghiệm làm gốm tại Bát Tràng, dệt vải ở làng lụa Hội An hay học nấu ăn với người bản địa tại Sa Pa. Tuy nhiên, để phát triển bền vững, cần có sự đầu tư bài bản hơn về hạ tầng, đội ngũ hướng dẫn viên cũng như nâng cao chất lượng nội dung trải nghiệm.
Bàn về xu hướng du lịch trải nghiệm văn hóa, ông Nguyễn Trần Hoàng Phương, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Du lịch – Truyền thông Golden Smile Corporation, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Du lịch xã hội, cho biết loại hình này không chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu văn hóa địa phương mà còn bao gồm việc hòa mình vào cộng đồng, tham gia du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa và trải nghiệm lối sống của người dân bản địa.
Sau đại dịch, nhu cầu du lịch trải nghiệm càng tăng mạnh, đặc biệt là mô hình lưu trú tại các làng quê, bungalow hay homestay. “Hiện nay, du lịch trải nghiệm văn hóa đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất và dự kiến sẽ tiếp tục bùng nổ trong ít nhất 5 năm tới, với những xu hướng mới mang tính cá nhân hóa và độc đáo hơn”, ông Phương nói.
Theo một khảo sát của Booking.com vào năm 2023, có đến 97% du khách người Việt Nam muốn tham gia vào các điểm đến du lịch bền vững, du lịch xanh. Trên toàn cầu, 80% số người tham gia khảo sát khẳng định du lịch theo hướng bền vững ngày càng quan trọng với họ.
Khi nhận thức về môi trường và trách nhiệm xã hội ngày càng được đề cao, du lịch xanh không chỉ trở thành xu hướng tất yếu mà còn là lợi thế cạnh tranh, giúp thu hút du khách quốc tế. Trong bối cảnh này, các mô hình du lịch bền vững, gắn liền với việc giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đang ngày càng được chú trọng.
Du khách quốc tế đến Tiền Giang. Ảnh: DNCC
Trao đổi với Sài Gòn Tiếp Thị, ông Nguyễn Trần Hoàng Phương cho biết tại Việt Nam, du lịch xanh và du lịch có trách nhiệm đã xuất hiện thông qua các mô hình như du lịch carbon thấp tại vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, cũng như du lịch thiện nguyện với các hoạt động trồng rừng, dọn dẹp môi trường. Đặc biệt, ở các nước phát triển, nhiều sinh viên lựa chọn đến Việt Nam vào mùa Đông hoặc kỳ thực tập để vừa học tập, vừa tham gia các hoạt động cộng đồng.
Xu hướng này dự báo sẽ tiếp tục tăng mạnh, nhất là khi các tiêu chuẩn về chứng chỉ carbon ngày càng trở nên quan trọng trong ngành du lịch.
Du khách nước ngoài ngắm hoa trên bán đảo Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Ảnh: Xuân Vinh
Theo ông Trần Quang Trung, Việt Nam sở hữu lợi thế lớn để phát triển du lịch xanh nhờ địa hình đa dạng, với một bên là bờ biển trải dài, một bên là đồi núi hùng vĩ còn giữ được vẻ hoang sơ. Tuy nhiên, để phát huy lợi thế này, cần chú trọng bảo tồn cảnh quan thiên nhiên, hạn chế tối đa việc sử dụng bê tông cốt thép và tránh xây dựng những công trình lớn có thể phá vỡ cảnh quan, ảnh hưởng đến môi trường.
Du khách quốc tế nghe thuyết minh về lịch sử nghề mộc Kim Bồng. Ảnh: Trung tâm VH-TT và TT-TH thành phố Hội An
Bên cạnh đó, xu hướng du lịch trải nghiệm cũng đang được du khách ưa chuộng, đặc biệt là các hành trình cá nhân hóa, gắn kết thiên nhiên và văn hóa bản địa.
Ông Bùi Thanh Tú, Giám đốc Marketing Công ty du lịch Best Price, cho rằng các mô hình như du lịch nông nghiệp tại Đà Lạt, Mộc Châu...; trekking tại Sơn Đoòng, Pù Luông, Tà Năng – Phan Dũng hay du lịch cộng đồng ở Tây Bắc và miền Tây sông nước đang tạo ra nguồn thu bền vững. Theo ông, những mô hình này không chỉ góp phần bảo tồn văn hóa địa phương mà còn thúc đẩy kinh tế cho cộng đồng bản địa.
Du lịch nghỉ dưỡng cao cấp đang trở thành một xu hướng phát triển mạnh tại Việt Nam, đặc biệt với sự gia tăng của nhóm khách thượng lưu từ Hàn Quốc, Ấn Độ và cả trong nước. Theo ông Bùi Thanh Tú, Giám đốc Marketing Công ty du lịch Best Price, đây là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh đầu tư vào các khu nghỉ dưỡng đẳng cấp tại Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc... kết hợp với những dịch vụ chăm sóc sức khỏe như spa, yoga và detox.
Khách nước ngoài trải nghiệm du lịch chăm sóc sức khỏe trên du thuyền ở vịnh Hạ Long. Ảnh: Saigontourist
“Khách du lịch hạng sang không chỉ quan tâm đến tiện nghi mà còn đòi hỏi sự riêng tư, dịch vụ cá nhân hóa và những trải nghiệm độc quyền. Nếu muốn cạnh tranh với các điểm đến như Maldives hay Bali, chúng ta cần tạo ra những sản phẩm khác biệt, không chỉ dựa vào cảnh quan thiên nhiên mà còn phải nâng cao chất lượng dịch vụ”, ông Tú nhấn mạnh.
Bên cạnh nhu cầu nghỉ dưỡng sang trọng, du lịch kết hợp chăm sóc sức khỏe cũng đang nổi lên như một xu hướng mới. Các liệu pháp tắm bùn khoáng, thiền, yoga, trị liệu bằng dược liệu tự nhiên là những sản phẩm tiềm năng lớn nếu được đầu tư bài bản, đồng thời gắn liền với bản sắc văn hóa địa phương.
Ông Tú cũng nhận định rằng Việt Nam cũng có nhiều tiềm năng phát triển du lịch y tế. Bên cạnh các dịch vụ phổ biến như nha khoa và khám tổng quát, các doanh nghiệp cũng hướng đến quảng bá y học cổ truyền. Đặc biệt, một số bệnh mà y học hiện đại chưa điều trị hiệu quả (chẳng hạn như liệt dây thần kinh do thời tiết lạnh), có thể được chữa bằng châm cứu và bấm huyệt – những phương pháp đã được chứng minh hiệu quả. Đây là lợi thế mà du lịch y tế Việt Nam có thể khai thác.
Ở góc độ phát triển du lịch nghỉ dưỡng biển đảo cao cấp, ông Trần Huỳnh Nguyên, Trưởng phòng phát triển sản phẩm công ty du lịch Viet Lotus, giảng viên trường Đại học Gia Định, cho rằng Việt Nam cần đẩy mạnh các loại hình như du thuyền, thể thao biển, khám phá đại dương… để đa dạng hóa trải nghiệm, thu hút khách hàng cao cấp.
Ông dẫn chứng rằng các nước như Thái Lan hay Maldives đã rất thành công trong việc xây dựng các khu nghỉ dưỡng ven biển kết hợp với dịch vụ "cá nhân hóa", tạo nên dấu ấn riêng biệt cho điểm đến.
Ở một khía cạnh khác, ông Phương, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Du lịch xã hội, cho rằng du lịch nghỉ dưỡng dài ngày cũng là thế mạnh của Việt Nam. Khách Nga và châu Âu thường chọn Việt Nam làm điểm đến tránh Đông, lưu trú tại các khu resort trong khoảng 10 ngày hoặc lâu hơn. Ngoài ra, họ còn có xu hướng di chuyển từ khu nghỉ dưỡng này sang khu nghỉ dưỡng khác hoặc tham gia các chuyến du thuyền trên sông Mê Kông để trải nghiệm hành trình xuyên quốc gia.
Du khách Nhật Bản trải nghiệm đua ghe ngang ở Quảng Nam. Ảnh: Hội An
Theo Viện trưởng Viện Nghiên cứu Du lịch xã hội Nguyễn Trần Hoàng Phương, việc phát triển du lịch không chỉ dừng lại ở việc xây dựng sản phẩm mà còn phải chú trọng đào tạo con người. Sản phẩm du lịch có thể đa dạng, từ văn hóa, truyền thống, ẩm thực đến cộng đồng, nhưng nếu thiếu nhân lực chất lượng, ngành du lịch khó có thể phát triển bền vững.
Mỗi thị trường khách có nhu cầu khác nhau, nhưng thay vì chỉ tạo ra sản phẩm riêng lẻ, điều cốt lõi là đào tạo đội ngũ nhân lực hiểu rõ hành vi và sở thích của từng phân khúc khách hàng.
"Một sản phẩm dù tốt đến đâu cũng cần con người vận hành chuyên nghiệp, linh hoạt, có tư duy phục vụ đúng chuẩn", ông Phương bày tỏ.
Trước đây, nhiều người xem phát triển du lịch là đầu tư vào cơ sở vật chất. Nhưng thực tế cho thấy, ngay cả những quốc gia không có tài nguyên thiên nhiên phong phú vẫn thành công nhờ chất lượng dịch vụ. Việt Nam có tài nguyên dồi dào, hạ tầng phát triển, nhưng vẫn gặp khó khăn trong việc nâng tầm du lịch vì thiếu tư duy phục vụ, chăm sóc khách hàng.
Mỗi thị trường khách có nhu cầu khác nhau, nhưng thay vì chỉ tạo ra sản phẩm riêng lẻ, điều cốt lõi là đào tạo đội ngũ nhân lực hiểu rõ hành vi và sở thích của từng phân khúc khách hàng. Ảnh: Đạt Thành
Nói cách khác, trong việc thu hút khách quốc tế, sản phẩm quan trọng, nhưng con người mới là yếu tố quyết định. Nhà nước có thể định hướng, nhưng doanh nghiệp phải hiểu khách hàng, linh hoạt như một nhà hàng biết phục vụ theo nhu cầu thực khách. Nếu không thay đổi tư duy, ngành du lịch sẽ mãi loay hoay với việc xây dựng sản phẩm mà không thể phát triển bền vững.
Lâu lắm rồi mới đọc một bài báo viết sâu và đầy tâm huyết như vậy. Chủ đề rất hay, thiết nghĩ những nhà lãnh đạo ngành du lịch nên tư duy theo những hướng như thế này. Nâng tầm giá trị du lịch của chúng ta. Xin phép tác giả, cho tôi share bài viết này trên trang cá nhân nhé!
Lâu lắm rồi mới đọc một bài báo viết sâu và đầy tâm huyết như vậy. Chủ đề rất hay, thiết nghĩ những nhà lãnh đạo ngành du lịch nên tư duy theo những hướng như thế này. Nâng tầm giá trị du lịch của chúng ta. Xin phép tác giả, cho tôi share bài viết này trên trang cá nhân nhé!