Thứ Tư, Tháng 10 29, 2025

Du lịch Việt trong thời kỳ mới (bài 2): Đón 25 triệu khách bằng những mô hình mới, giải pháp đột phá

A.I
(SGTT) - Mục tiêu tham vọng đón 25 triệu lượt khách quốc tế trong năm 2025 đòi hỏi ngành du lịch Việt Nam phải chuyển đổi tư duy từ phát triển theo số lượng sang phát triển theo chiều sâu, tập trung khai thác các khoảng trống sản phẩm mới bên cạnh những giải pháp mang tính đột phá.
Du khách khám phá thiên nhiên kết hợp rèn luyện sức khỏe tại một vùng núi phía Bắc. Ảnh: Hải Trần

Ngành du lịch Việt Nam đang ghi nhận những tín hiệu phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch. Tính đến tháng 10 này, tổng lượng khách quốc tế đã đạt 15,4 triệu lượt, tăng 21,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Trước bối cảnh kinh tế tăng trưởng mạnh, Chính phủ đã đặt mục tiêu đầy tham vọng: đón 25 triệu lượt khách quốc tế trong năm 2025.

Áp lực mục tiêu và yêu cầu chuyển đổi tư duy

Tuy nhiên, việc theo đuổi mục tiêu về số lượng đang làm lộ rõ tình trạng quá tải tại nhiều điểm đến nổi tiếng như Phú Quốc hay Sapa, nơi công suất phòng đã đạt mức cao nhất. Đây là lúc toàn ngành cần chuyển dịch từ “phát triển theo chiều rộng” sang “phát triển theo chiều sâu”, tập trung vào mục tiêu kép: vừa tăng lượng khách, vừa nâng chất lượng chi tiêu, hướng đến mục tiêu đóng góp 13–14% GDP vào năm 2030.

Sự quá tải tại các điểm đến truyền thống đồng nghĩa với việc vẫn còn “rất nhiều khoảng trống” du lịch chưa được khai phá. Qua khảo sát 14 điểm đến trọng điểm cả nước, các chuyên gia nhận định nhiều loại hình du lịch theo xu hướng hậu Covid-19 như du lịch thông minh, du lịch xanh và carbon thấp, du lịch tâm linh, du lịch giáo dục, du lịch y tế, và du lịch sáng tạo vẫn chưa được đầu tư bài bản. Đây chính là dư địa lớn cần được khai thác để giảm áp lực lên các sản phẩm truyền thống.

Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa sản phẩm cần hướng tới giá trị trải nghiệm cao và bền vững. Thay vì các mô hình lưu trú quen thuộc với tầm nhìn ra biển hay sông, mô hình lưu trú giữa đồng ruộng, rừng cây hay vùng nông nghiệp có thể mang đến giá trị trải nghiệm mới lạ và bền vững. Ngành du lịch cũng cần xây dựng hệ sinh thái riêng biệt, đặc thù để đón các dòng khách mới, chẳng hạn như du lịch thân thiện cho khách Hồi Giáo hay hệ thống nhà hàng ẩm thực cho khách Ấn Độ.

Gợi ý từ mô hình “phố - làng – nóc”

Du khách nước ngoài trải nghiệm văn hóa bản địa. Ảnh: Song Châu

Trong bối cảnh tìm kiếm giải pháp đột phá về sản phẩm và không gian, mô hình phát triển du lịch của Đà Nẵng sau khi hợp nhất địa giới hành chính có thể được xem là một gợi ý thực tiễn. Việc hợp nhất đã đưa Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương có diện tích lớn nhất cả nước, với không gian mở rộng gấp 10 lần (khoảng 11.867km²) và sở hữu địa hình kết nối liền mạch từ biển, đồng bằng đến rừng núi.

Sự hợp nhất này tạo ra “tài nguyên kép” độc đáo: sự giao thoa giữa vùng đô thị hiện đại (Đà Nẵng cũ, nổi bật với du lịch đô thị, nghỉ dưỡng biển, MICE) và vùng di sản, sinh thái rộng lớn (Quảng Nam cũ, với kho tàng di sản văn hóa phong phú, đặc biệt là Hội An và khu vực miền núi Trường Sơn nguyên sơ). Tuy nhiên, chính sự phong phú tài nguyên này lại đặt ra thách thức lớn về quản trị, bao gồm nguy cơ trùng lặp sản phẩm và áp lực thương mại hóa quá mức lên các điểm đến cốt lõi (như Hội An).

Để giải quyết bài toán tài nguyên kép, cần có một chiến lược định vị thương hiệu thống nhất, giải quyết bài toán hài hòa hai thương hiệu đã định hình trước đây là “Thành phố của những cây cầu” và “Miền di sản”. Trong đó, mô hình ba vùng không gian phát triển, hay còn gọi là “phố – làng – nóc", được đề xuất nhằm tối ưu hóa thế mạnh của từng vùng, đồng thời tránh trùng lặp sản phẩm:

Mô hình này phân tách không gian thành ba trụ cột phát triển rõ rệt. Vùng phố (lõi đô thị) sẽ tập trung phát triển du lịch MICE, sự kiện, du lịch đô thị hiện đại và tiện nghi nghỉ dưỡng biển cao cấp. Di chuyển ra khỏi lõi đô thị là vùng làng (đồng bằng và di sản), nơi khai thác giá trị văn hóa bản địa, du lịch nông nghiệp, và trải nghiệm nhân tình thuần hậu, với Phố cổ Hội An là điển hình.

Cuối cùng là vùng nóc (miền núi cao), bao gồm các xã miền núi, tập trung khai thác văn hóa Cơ Tu, Xê Đăng, thiên nhiên Trường Sơn nguyên sơ và các sản phẩm mạo hiểm, du lịch có trách nhiệm. Giải pháp cốt lõi là xác định điểm nhấn cho từng vùng để tránh trùng lặp và quan trọng là mở rộng không gian lLàng, nóc để giảm áp lực lên vùng lõi du lịch đô thị và di sản.

Cần đột phá về thị thực và xúc tiến

Song song với việc đổi mới sản phẩm, ngành du lịch Việt Nam cần có giải pháp đột phá về thị thực. Chính sách visa linh hoạt được coi là yếu tố then chốt để tăng nhanh lượng khách quốc tế. Theo dữ liệu khảo sát của Google (tháng 12/2024), lượng tìm kiếm "visa vào Việt Nam" đã tăng trưởng 70%, và việc nới lỏng hoặc miễn thị thực cho các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao như Ấn Độ, Đài Loan hay Trung Quốc sẽ là bước đi chiến lược, làm tăng số lượng khách quốc tế nhanh nhất.

Điển hình là Phú Quốc – điểm đến miễn visa cho toàn thế giới – đang chứng minh lợi thế cạnh tranh rõ rệt.

Về quản lý dịch vụ, để phát huy tối đa hiệu quả của tài nguyên và không gian mới, cần chuyển từ liên kết lỏng lẻo sang liên kết tuyến điểm và quản lý chất lượng dịch vụ đồng bộ trên toàn bộ địa bàn mới.

Việc này cần được thực hiện thông qua Bộ tiêu chí Văn hóa Du lịch, hướng đến đạt chuẩn “chất lượng cao” ở tất cả các loại hình sản phẩm. Đồng thời, việc ứng dụng công nghệ, khai thác dữ liệu lớn và AI để cá nhân hóa trải nghiệm cũng là giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dịch vụ.

Cuối cùng, xúc tiến quảng bá quốc tế cần được xem là ưu tiên đầu tư trọng điểm. Chính phủ cần dành ngân sách nhiều hơn cho xúc tiến du lịch quốc gia, và doanh nghiệp cần đồng hành trong việc nâng cao hình ảnh “Việt Nam – điểm đến thân thiện và sáng tạo”. Với mục tiêu 25 triệu lượt khách quốc tế và đóng góp 13-14% GDP, việc đầu tư hệ thống văn phòng đại diện du lịch quốc gia tại các thị trường quốc tế trọng điểm là không thể thiếu.

Tóm lại, bối cảnh mới đòi hỏi tư duy mới: không chỉ phát triển theo số lượng mà còn hướng tới chất lượng, sáng tạo và bền vững. Với hành lang pháp lý thuận lợi từ 4 Nghị Quyết tứ trụ đột phá của Chính phủ (NQ57, NQ59, NQ66 và NQ68) , Việt Nam có đầy đủ điều kiện để trở thành một trung tâm du lịch hàng đầu châu Á, nếu biết tận dụng dữ liệu, đổi mới sản phẩm (như mô hình phố – làng – nóc), cải cách thị thực và quảng bá quốc tế một cách đồng bộ, chiến lược.

Nguyễn Sơn Thủy - Nhân Tâm

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Cùng chủ đề

Hà Nội đón hơn 28 triệu lượt khách, vượt cả năm...

0
(SGTT) - Trong 10 tháng qua, thành phố Hà Nội đón hơn 28,2 triệu lượt khách, đạt 91% kế hoạch năm và vượt tổng...

Du lịch Việt trong thời kỳ mới (bài 1): Cần một...

0
(SGTT) - Đã qua giai đoạn hồi phục số lượng, ngành du lịch Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải tái...

Nguy cơ TPHCM mất hàng ngàn khách du lịch đường biển...

0
(SGTT) - Tập đoàn tàu biển Royal Caribbean đã có văn bản đề xuất Chính phủ và UBND TPHCM sớm cho phép khu vực...

Du lịch Hà Nội thu về gần 98.400 tỉ đồng trong...

0
(SGTT) - Trong 9 tháng đầu năm 2025, Hà Nội đón hơn 26 triệu lượt khách, tăng gần 24% so với cùng kỳ năm...

Du khách đến TPHCM chi tiêu hơn 184.000 tỉ đồng trong...

0
(SGTT) - Theo Sở Du lịch TPHCM, tổng doanh thu ngành du lịch trong 9 tháng qua ước đạt hơn 184.000 tỉ đồng, tương...

Việt Nam đón hơn 15,4 triệu lượt khách quốc tế trong...

0
(SGTT) - Trong 9 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đón hơn 15,4 triệu lượt khách quốc tế, tăng 21,5% so với cùng kỳ,...

Kết nối