Thứ Ba, Tháng 9 30, 2025

Nâng tầm thương hiệu quốc gia qua hệ sinh thái dịch vụ mang bản sắc Việt

A.I
(SGTT) – Những sản phẩm, dịch vụ văn hoá – du lịch – nông nghiệp mang bản sắc Việt Nam hoàn toàn có thể góp phần nâng tầm thương hiệu quốc gia, nhờ sự chung sức, đồng lòng của các doanh nghiệp tư phân, cơ quan quản lý Nhà nước và địa phương.

Nỗi lòng của doanh nhân với đất nước

Thương hiệu quốc gia Việt Nam đạt 507 tỉ đô la Mỹ và xếp thứ 32/193 quốc gia được đánh giá năm 2024, tăng một bậc về thứ hạng và tăng 2% về giá trị so năm 2023, theo Brand Finance. Kết quả này tới từ nỗ lực của Chính phủ trong cải cách môi trường đầu tư, đẩy mạnh xuất - nhập khẩu, hỗ trợ phát triển thương hiệu sản phẩm và quyết tâm “vươn ra biển lớn” của nhiều doanh nghiệp như Vietjet, PNJ, FPT, Gemandept, Vĩnh Hiệp, Euro Window, Đại Dũng…

Du khách Hàn Quốc tham quan phố cổ Hội An bằng xe xích lô. Ảnh: Gia Nghi

Nhưng ngoài số ít thương hiệu lớn, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam vẫn loay hoay với bài toán xác lập vị thế trong chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu.

Bà Nguyễn Thị Vinh, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Thái Hưng, nêu thực trạng Việt Nam dẫn đầu thế giới về sản lượng trà được xuất khẩu, nhưng đơn giá xuất khẩu bình quân quá thấp với chỉ 3,7 đô la Mỹ/kg, trong khi Trung Quốc xuất khẩu với đơn giá bình quân 60 đô la/kg. Đáng lo hơn, yêu cầu về trà “sạch”, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vẫn là vấn đề lớn.

Do tỉ lệ ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất – kinh doanh thấp, nên kỳ vọng áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững, tiến tới phát triển dịch vụ du lịch trải nghiệm và quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc qua sản phẩm trà chưa thể thành hiện thực, dù có nhiều tiềm năng. Còn câu hỏi “Đưa 200.000 nông hộ và gần 300 hợp tác xã tại Thái Nguyên - thủ phủ trà của miền Bắc - trở thành doanh nghiệp?” và “Kết nối thế nào trong bài toán kinh doanh của các nữ doanh nhân - vốn chiếm 87% nhân lực ngành trà” vẫn chưa có lời giải.

“Ngành cà phê đã vươn tầm thế giới, vậy tại sao ngành trà của chúng ta chưa có tên trên bản đồ ấy?” bà Vinh nói và cho rằng cần giải quyết vấn đề kết nối giữa nhà khoa học - chính quyền - nông hộ - doanh nghiệp.

Với lĩnh vực du lịch, ông Trần Trọng Kiên, Chủ tịch Tập đoàn Thiên Minh, cho biết ngành đã đón gần 14 triệu lượt khách quốc tế tới Việt Nam sau 8 tháng đầu năm 2025 và dự kiến đóng góp khoảng 2,2–2,8 điểm phần trăm vào tăng trưởng kinh tế cả năm, trong bối cảnh chỉ số xếp hạng môi trường du lịch của Việt Nam hiện ở nhóm cuối, trên bảng xếp hạng toàn cầu.

Theo đại diện Thiên Minh, các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn có thể làm tốt hơn trong một số vấn đề, như: cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs); gìn giữ môi trường thiên nhiên, yếu tố xã hội, cộng đồng tại các địa phương làm du lịch; mở rộng chính sách thị thực sang các thị trường Việt Nam có quan hệ đối tác như Mỹ, Trung Quốc và một số thị trường gửi khách khác, thay vì dừng lại ở EU… nhằm giới thiệu thương hiệu Việt Nam tới quốc tế hiệu quả hơn.

“Nếu làm sớm có thể tiếp đón nhiều du khách hơn, sau khi sân bay Long Thành và đường sắt cao tốc Bắc – Nam đi vào vậnh hành, các hãng hàng không mới gia nhập thị trường. Ngược lại, dù có mở rộng hạ tầng cũng không thể sử dụng tối đa công suất, dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn toàn xã hội giảm rất nhiều”, ông Kiên nói và kỳ vọng các doanh nghiệp tư nhân các cơ quan thuộc Chính phủ sẽ phối hợp, trao đổi thường xuyên, nhằm giải quyết vấn đề.

Bổ sung, ông Ngô Minh Đức, Chủ tịch HG Holding, kiến nghị chính sách thị thực cần mở hơn với du khách, thậm chí cả dịch vụ thị thực tại sân bay. Hơn nữa, cần hướng tới tự do hoá việc cung cấp các dịch vụ công cộng tại sân bay, để có mức giá bán thấp hơn.

“Ở sân bay nội địa, khách phải trả 260.000 đồng cho một bát phở. Trong khi ở Nhật, khách chỉ 1200 Yên, tức là khoảng hơn 210.000 đồng cho một bát ramen”, ông Đức so sánh.

Vai trò của doanh nghiệp lớn trong hệ sinh thái thương hiệu quốc gia

Thực tế, việc nâng tầm thương hiệu quốc gia phải xuất phát từ định hướng của mỗi doanh nghiệp, thể hiện ở nhiều phương diện, như: sản phẩm, dịch vụ, trách nhiệm xã hội, trải nghiệm khách hàng... Trong đó, không thể thiếu những dự án có tính lan toả và tạo lợi thế cạnh tranh, nhằm thúc đẩy mối quan hệ hợp tác, cùng phát triển giữa các doanh nghiệp trong hệ sinh thái ngành, khu vực.

Du khách quốc tế trải nghiệm đạp xe tại Huế. Ảnh: Nguyễn Phúc Bảo Minh

Thực tế, tại cuộc họp của Uỷ ban IV, thuộc mô hình Toàn cảnh kinh tế tư nhân Việt Nam, ông Trần Trọng Kiên và bà Hà Thị Thu Thanh, nguyên Chủ tịch Deloitte Việt Nam từng đề xuất một dự án hợp tác công – tư, nhằm giải quyết bài toán bảo tồn di sản, gắn với phát triển kinh tế bền vững, tạo ra một sản phẩm du lịch bản sắc Việt Nam.

Đó là dự án phát triển làng gốm Bát Tràng thành điểm đến du lịch văn hóa tầm cỡ quốc tế. Trọng tâm của dự án không chỉ tập trung vào bảo tồn giá trị di sản, mà hướng tới xây dựng hệ sinh thái dịch vụ du lịch chuyên nghiệp, kết nối các nghệ nhân, doanh nghiệp địa phương và các nhà đầu tư lớn.

Tương tự, bà Cao Thị Ngọc Dung, Chủ tịch PNJ, đề xuất hình thành hệ sinh thái du lịch, gắn với trải nghiệm phong cách sống (lifestyle), nhằm kết nối các ngành có thế mạnh của Việt Nam như du lịch, thời trang, ẩm thực, truyền thông và giải trí… để cùng tạo ra giá trị gia tăng, nâng tầm thương hiệu quốc gia Việt Nam.

Để những ý tưởng hợp tác có thể triển khai trong thực tế, TS Abel D. Alonso, giảng viên cấp cao, ngành Kinh doanh quốc tế (Đại học RMIT), khuyến nghị các doanh nghiệp phải truyền tải những trải nghiệm, hình ảnh và câu chuyện đáng nhớ. Đồng thời, cung cấp sản phẩm, dịch vụ có chất lượng nhất quán, thể hiện với đối tác và khách hàng về việc “lời nói đi đôi với việc làm”.

Chẳng hạn, một đơn vị sản xuất cà phê có thể xây dựng mô hình trồng cà phê bền vững, kết hợp dịch vụ lưu trú tại nông trại hoặc tổ chức các hoạt động du lịch liên quan đến cà phê, để chia sẻ câu chuyện về người nông dân.

Về chiến lược, bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế, khuyến nghị cần cân bằng giữa khối SMEs - vốn chiếm đa số trong nền kinh tế, và số ít doanh nghiệp lớn giữ vai trò tiên phong.

“Ngay cả những quốc gia như Mỹ và Nhật Bản, nơi SMEs chiếm hơn 90%, nhưng doanh nghiệp lớn mới là lực lượng dẫn dắt. Nếu không có ‘đầu tàu’, nền kinh tế sẽ thiếu đi sức bật chiến lược”, bà Lan nói.

Một vấn đề mang tính nền tảng khác cần lưu tâm trong quan hệ hợp tác là nguồn nhân lực. Bà Tiêu Yến Trinh, Tổng Giám đốc Talentnet Group, đánh giá đây là một trong những “điểm nghẽn” lớn nhất của Việt Nam.

Do đó, cần xem xét thành lập một bộ phận chuyên trách, hoặc một tiểu ban riêng về nguồn nhân lực trong Ủy ban IV. Việc này nhằm xây dựng yếu tố nền tảng, trước khi có những chiến lược đủ sâu và hành động đủ mạnh mẽ để giải quyết bài toán đào tạo, thu hút và phát triển nguồn nhân lực cho SMEs - là yếu tố tiên quyết cho sự thành công của mọi dự án có liên quan đến doanh nghiệp tư nhân.

Vân Phong

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Cùng chủ đề

Thái Nguyên phát triển bốn dòng sản phẩm du lịch đặc...

0
(SGTT) - Thái Nguyên đang tập trung phát triển và quảng bá bốn loại hình du lịch chủ đạo, gồm du lịch văn hoá...

Chuyển đổi xanh và ứng dụng số giúp du lịch ĐBSCL...

0
(SGTT) – Du lịch xanh và số hóa không còn là lựa chọn mà đã trở thành điều kiện tất yếu để “ngành công...

Nâng chất du lịch: Nhìn từ những vòng xe xích lô

0
(SGTT) - Từ những con đường náo nhiệt ở TPHCM, Hà Nội đến vẻ đẹp cổ kính của Huế, những vòng xe xích lô...

Nền tảng du lịch trực tuyến chạy đua ứng phó sự...

0
(SGTT) - Các nền tảng du lịch trực tuyến lớn nhất thế giới bao gồm Booking.com và Expedia đang ráo riết ứng phó với...

Du lịch cuối năm: khách quốc tế chuộng tour xuyên Việt,...

0
(SGTT) - Mùa du lịch cuối năm đang trở nên sôi động khi các công ty lữ hành ghi nhận lượng khách quốc tế...

Khách du lịch tăng mạnh tại nhiều địa phương dịp lễ...

0
(SGTT) - Kỳ nghỉ lễ Quốc khánh 2-9 năm nay (30-8 đến 2-9), du lịch tại nhiều địa phương tiếp tục khởi sắc với...

Kết nối