Thùy Dung -
Nhiều quy định mới sẽ được áp dụng theo thỏa thuận mà Việt Nam đã ký với Liên minh châu Âu (EU) về gỗ hợp pháp. Những quy định này sẽ tác động tới cả các làng nghề gỗ ở Việt Nam, nơi hiện nay vẫn chủ yếu sử dụng nguồn nguyên liệu gỗ không rõ nguồn gốc.
Không biết VPA là gì!
Anh Nguyễn Văn Cảnh (45 tuổi) đã sinh ra, lớn lên và sống bằng nghề sản xuất, buôn bán gỗ ở làng nghề Đồng Kỵ, phường Đồng Kỵ, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đây là làng nghề gỗ nổi tiếng trên cả nước. Anh Cảnh có một xưởng sản xuất gỗ, tuyển dụng khoảng 20 thợ lành nghề để đóng giường, tủ, bàn ghế, kệ tivi bằng nguồn gỗ nhập khẩu từ Lào, Campuchia hoặc châu Phi. Đồ gỗ thành phẩm được bán cho các cửa hàng bán lẻ lớn trong làng để vừa xuất khẩu sang Trung Quốc vừa bán tại thị trường nội địa.
“Tôi không quan tâm nhiều tới giấy tờ hoặc nguồn gốc gỗ có hợp pháp không vì không ai hỏi mà khách hàng cũng không yêu cầu. Thêm nữa, tôi mua gỗ nguyên liệu từ nhiều cửa hàng khác nhau nên việc có giấy tờ chứng minh nguồn gỗ cho một sản phẩm là rất khó", anh Cảnh nói. Hai mươi thợ lành nghề mà anh Cảnh tuyển dụng cũng chỉ trả lương theo thoả thuận miệng, khoảng 200.000 đến 300.000 đồng/ngày, có việc thì làm, không có việc thì nghỉ.
Do thiếu mặt bằng, anh Cảnh dựng xưởng chế biến ngay cạnh nhà ở. Việc này đã gây ô nhiễm nặng về tiếng ồn và không khí của các hộ gia đình xung quanh. Dù anh đã đầu tư quạt thông gió, quạt hút bụi nhưng cũng không thể xử lý hết được vấn đề ô nhiễm bụi tại nhà và khu vực xung quanh nhà anh sinh sống.
Theo thống kê chỉ riêng làng nghề Đồng Kỵ có khoảng 3.500 hộ gia đình trong đó tới 3.000 hộ tham gia nghề gỗ từ buôn bán, vận chuyển, chế biến đến cung ứng gỗ nguyên liệu. Nghề gỗ đã đóng góp 90% tổng thu nhập của Đồng Kỵ.
Tính chung trên cả nước hiện có khoảng trên 300 làng nghề gỗ đang hoạt động với hàng chục nghìn hộ gia đình và hàng trăm nghìn lao động, bao gồm các lao động trực tiếp từ các hộ và lao động thuê từ bên ngoài, đang làm việc tại đây. Với quy mô như vậy các làng nghề gỗ hiện nay có vai trò hết sức quan trọng đối với sinh kế của các hộ gia đình trong đó có nhiều nông hộ nghèo.
Việt Nam được biết đến là một công xưởng chế biến gỗ của thế giới nhưng để ngành gỗ của Việt Nam phát triển bền vững hơn, và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam vào thị trường EU, Chính phủ Việt Nam đã đàm phán Hiệp định Đối tác tự nguyện (VPA/FLEGT) với EU năm 2010 và đã ký tắt kết quả đàm phán vào tháng 5-2017.
VPA áp dụng một định nghĩa rộng hơn về tính hợp pháp của gỗ. Theo đó, các sản phẩm gỗ tiêu thụ trên thị trường, bao gồm cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, được coi là hợp pháp nếu quá trình khai thác gỗ, chế biến, thương mại tuân thủ toàn bộ các quy định của quốc gia đối tác, bao gồm cả các quy định về môi trường, trách nhiệm về thuế, phí, sử dụng lao động, an toàn trong lao động…
“Tôi chưa nghe ai nói gì về VPA, FLEGT cả. Nó là cái gì, tác động gì tới chúng tôi?", anh Cảnh nói khi được hỏi về tác động của VPA tới công việc của anh.
Không chỉ riêng anh Cảnh, theo điều tra mới đây của Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam và Tổ chức Forest Trends, có tới hơn 90% người dân ở các làng nghề chưa từng được nghe hoặc hiểu về những gì đã được đàm phán ở châu Âu xa xôi và nếu được thông qua sẽ tác động gì tới làng nghề của họ.
Khó đáp ứng tiêu chuẩn mới
Theo ông Tô Xuân Phúc, Chuyên gia phân tích chính sách tại tổ chức Forest Trends, trong những năm vừa qua đã có những tín hiệu rõ ràng thể hiện sự dịch chuyển trong việc sử dụng nguồn gỗ nguyên liệu trong các làng nghề gỗ theo hướng thân thiện về môi trường. Một số làng như Liên Hà, Hữu Bằng đã bước đầu sử dụng gỗ nguyên liệu đầu vào rủi ro thấp, thân thiện về môi trường, bao gồm gỗ nhập khẩu từ Mỹ, EU, gỗ rừng trồng trong nước và các loại ván công nghiệp để sản xuất các sản phẩm phục vụ nhóm khách hàng bình dân trong nước.
“Bên cạnh những dịch chuyển tích cực là những rủi ro và khó khăn to lớn mà các hộ trong làng nghề đang phải đối mặt”, ông Phúc nói.
Đến nay, hoạt động của các hộ sản xuất kinh doanh tại các làng nghề còn mang đậm tính tự phát, chủ yếu chạy theo nhu cầu, thị hiếu của thị trường. Hiểu biết và mối quan tâm của hộ về tính pháp lý của nguồn gỗ nguyên liệu, các quy định về sử dụng lao động, vệ sinh an toàn lao động, các quy định về môi trường, phòng chống cháy nổ, các cơ chế chính sách mới, có hoặc sẽ liên quan trực tiếp đến các hoạt động của hộ còn hạn chế.
Giao dịch giữa các hộ trong làng, bao gồm giao dịch giữa hộ kinh doanh gỗ nguyên liệu và hộ sản xuất chế biến đồ gỗ, giữa các hộ sản xuất và người mua đồ gỗ sau chế biến là các giao dịch miệng và hầu như không có bất cứ bằng chứng pháp lý nào minh chứng cho tính hợp pháp của gỗ và sản phẩm sau chế biến. Những đặc tính này của làng nghề mang đạm tính chất của khu vực phi chính thức.
Theo ông Phúc, các quy định trong VPA đòi hỏi các hộ cần đáp ứng các yêu cầu pháp lý có liên quan đến vận chuyển và buôn bán gỗ, trong chế biến và hoàn thành các nghĩa vụ về thuế, phí. “Với thực trạng sản xuất, kinh doanh của các hộ trong làng nghề hiện nay, hầu hết các hộ tại các làng nghề được khảo sát không thể đáp ứng với các quy định mới trong VPA”, ông Phúc nói.
Ông Nguyễn Văn Hà, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đồng thời là Trưởng đoàn đàm phán kỹ thuật Hiệp định VPA/FLEGT giữa Việt Nam và EU cho biết, ngay từ bây giờ, các hộ làng nghề cần phải dần chuyển sang sử dụng gỗ hợp pháp, có nguồn gốc rõ ràng để thích ứng với những quy định mới.
Từ nay tới khi Hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp của Việt Nam (VNTLAS) theo cam kết trong VPA xây dựng được, ước tính khoảng 3-4 năm nữa, nếu tới thời điểm đó, theo ông Hà, những sản phẩm gỗ bất hợp pháp, không có nguồn gốc rõ ràng sẽ bị tịch thu, kể cả gỗ sản xuất để tiêu thụ trong nước. Để hỗ trợ cho làng nghề, sắp tới Chính phủ sẽ có chính sách tuyên truyền và hỗ trợ các làng nghề chuyển đổi sang mô hình kinh doanh mới, tránh gây ảnh hưởng tiêu cực tới các làng nghề trong thời kỳ hội nhập.
Còn theo kiến nghị của Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam cùng Tổ chức Forest Trends, Chính phủ nên hỗ trợ chính thức hóa các hộ sản xuất, kinh doanh gỗ ở các làng nghề. Chính thức hóa là cơ sở giúp các hộ đáp ứng được với các yêu cầu của VPA, bao gồm tuân thủ các quy định hiện hành về các khía cạnh như sử dụng nguyên liệu đầu vào, sử dụng lao động, các biện pháp bảo vệ môi trường. Chính thức hóa sẽ có cơ hội giúp hộ cải thiện điều kiện làm việc, đáp ứng các yêu cầu về tính hợp pháp của sản phẩm gỗ, tạo nguồn thu cho ngân sách quốc gia.