(SGTT) - Hiện ở vùng miền núi của tỉnh Phú Yên có người cất giữ bộ che ép mía quay tròn bằng bò, còn trong quán cà phê ở thành phố cũng trưng bày bộ che này.
- Đến Phú Yên, ghé thăm nhà cổ Quảng Đức Xưa
- Thăm lồng bè nuôi tôm hùm trên vũng Gành Đỏ, Phú Yên
- Phú Yên đẹp ngỡ ngàng khi nhìn từ trên cao
Nhiều người trước đây một thời cầm roi đánh bò đi vòng để quay bộ che ép mía, lâu rồi giờ thấy xuất hiện của bộ che, một hình ảnh thân quen, hồi tưởng lại chuyện cũ. Còn lớp trẻ sau này nhìn thấy trong quán cà phê dựng lên ba khúc gỗ có răng cưa, tò mò hỏi thăm. Từ đó nhiều đứa trẻ biết được “tổ tiên” của nghề làm mía đường.
Dựng che, đào lò, nấu đường
Cách đây ba, bốn chục năm, ở vùng miền núi huyện Sơn Hòa, Đồng Xuân (Phú Yên), từ tháng Ba Âm lịch đến mùa thu hoạch mía, người trong xóm trồng mía cùng nhau dựng chòi che ép mía, đào lò nấu đường đen. Chòi che thường được cất trên một đám đất trống gần những đám mía. Phía trong chòi che đặt che ép mía, ở đó lúc nào cũng có ba người: người đánh bò đi xoay tròn, hai người kia châm mía kiêm luôn khâu rút bã. Còn lò che là nơi nấu đường, thường dùng ba chảo.
Ông Mạnh Bình Sâm, ở xã Xuân Quang 3 (huyện Đồng Xuân), hiện đang cất giữ bộ che bò ép mía chia sẻ về cấu trúc lò che, một đầu lò có cửa nhỏ để thông khói, đầu kia là cửa hình chữ nhật dùng để đưa chà hay bã mía khô vào chụm. Thời đó nấu hai loại đường, đường đen (gọi là đường trầm) và đường cát.
Cũng theo ông Sâm, để có nước mía nấu đường thì trong chòi dựng bộ che, gồm một ống che đực và hai ống che cái, máng mâm, khẩu, trụ, dây nài và đòn gánh. Phần trên của che đục đẽo thành những khớp răng gọi là tai che (nhông) để bám vào xoay tròn.
Ông Sâm hiện làm nghề thợ mộc nối nghiệp cha ông trước đây làm nghề đục đẽo nên rất rành trong khâu đục đẽo ra bộ che. “Kỹ thuật đục đẽo ra bộ nhông thật khớp đòi hỏi người thợ có tay nghề cao, làm ròng rã cả năm trời. Hai ống che cái gồm một ống che cây và ống che bã. Trên đầu ống che đực nhô cao hơn hai ống che cái, nơi ấy gắn dây nài nối với đòn gánh mắc vào vai trâu bò. Máng là phần dưới của ba ống che hứng nước mía chảy ra chỗ lu chứa, khẩu là nơi “kẹp cổ” ba ống che”, ông Sâm nói.
Để ép mía, người ta cho cây mía vào giữa hai ống che rồi dắt trâu, bò vào hai cây đòn gánh nối với trục che cái đi vòng quanh che. Khi trâu, bò di chuyển, nó làm quay chiếc trục che đực kéo theo hai che cái nhờ những nhông gỗ được đục ăn khớp với nhau. Mía được ép chảy ra nước giữa các ống che và nước mía được người ta hứng ở phần máng mâm che, sau đó cho vào chảo to để nấu thành đường.
Che bò ép mía nấu đường đen được xem là “tổ tiên” của nghề làm mía đường. Sau đó che máy ra đời thay thế che bò, người nông dân tiếp tục dựng lò nấu đường đen. Dọc theo khu gò đồi, nhiều lò che dựng lên, che máy là cái máy nổ gắn qua hộp nhông kéo 4 ống che ép mía ra nước chè và cái lò nấu đường.
Biết được nghề nấu đường của ông bà qua bộ che
Ông Trần Phú, ở phường 2, thành phố Tuy Hòa (Phú Yên) cho hay "Hôm rồi tôi đưa gia đình đi uống cà phê Legacy trên đường Nguyễn Tất Thành, phường 8, thấy trưng bày bộ che mía con tôi tò mò hỏi thăm. Quê tôi ở xã Xuân Sơn Bắc (huyện Đồng Xuân) nên tôi rành bộ che mía, khi con hỏi, tôi kể, đây là che ép mía thủ công đầu tiên nấu đường đen".
Để nấu đường đen thì đào lò theo dạng “chân chậu”, nghĩa là trên hẹp vừa miệng chảo, hai bên hông rộng ra. Chỗ cửa lù đắp bô (ống khói) cao lên để hút khói đen ra ngoài, nếu khói đen “ém” lại trong lò thì lửa cháy không bốc. Người biết cách thì đào lò nhẹ, chụm khoảng 2 giờ đồng hồ là chín phuy nước chè mía. Còn người không rành thì đào lò nặng, chụm 3 tiếng mới chín, hao bã mía. Chảo nấu đường có loại 7 chỉ, loại 9 chỉ, tức là 9 đường viền miệng chảo.
Cũng theo ông Phú, cái nghề này nắng gay gắt chừng nào thì nông dân mừng chừng nấy, bởi nắng bã mía phơi khô chụm lửa lò cháy dữ dội. Còn mưa thì bã mía ướt, vì vậy có năm gặp mưa kéo dài cả tuần thì mía héo chạy chè.
Ngày trước trong xóm người giàu có mới sắm được một bộ che mía và đến mùa thu hoạch thì chủ che cho các gia đình trồng mía dựng chòi để ép mía nấu đường. Trâu, bò kéo che thì do những gia đình trồng mía lo liệu, cứ ép ra 10 phuy nước chè thì người chủ che được 1 phuy. Cứ như thế chủ che đi đến hết làng này đến làng khác trong suốt mùa làm đường cho đến khi nào xong mới về nhà. Những chủ mía lo việc ăn ở, cơm nước cho chủ che theo trông coi. Cứ mỗi mùa thu hoạch ép mía, chủ che có thể kiếm được một số tiền kha khá nhờ vào việc cho thuê che.
“Hai đứa con tôi, một đứa 26 tuổi, đứa 23 tuổi, uống cà phê, nghe say xưa tôi kể chuyện xưa, khơi dậy lòng yêu mến nghề nấu đường đen từ thời ông bà, hiểu lịch sử quê hương”, ông Phú nói.
Nhiều người uống cà phê cạnh đó cũng có chung suy nghĩ, việc trưng bày bộ che là đáng trân trọng, nó lạ mắt và không tự dưng mà có. Ông Phan Văn Bình, cũng ở phường 2, đang ngồi uống cà phê cạnh đó, tâm sự thế hệ trẻ nhìn hình ảnh bộ che, trân trọng giá trị lịch sử, biết ơn những thế hệ đi trước, đã “nghiên cứu” ra bộ che đầu tiên của nghề mía đường. Ngoài nét đẹp lạ lẫm, bộ che bò là vật dụng truyền thống làm ra đường, mật ngọt. Từ đó phát triển đến hôm nay là nhà máy công nghiệp mía đường hiện đại.
Ông Nguyễn Đức Thắng, Chi Cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn Phú Yên, cho biết Phú Yên đang khôi phục phát triển một số làng nghề tiểu thủ công nghiệp, khuyến khích người có tay nghề, các nghệ nhân truyền dạy, đào tạo cho thế hệ trẻ bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc thù, tinh sảo của người dân ở vùng miền núi. Nhà dân, quán cà phê còn lưu giữ, trưng bày các vật dụng có từ lâu đời, hình ảnh gần gũi, dân dã đã gắn bó bao đời nay với những người dân vùng nông thôn, đó là ý tưởng hay như kể chuyện về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Mạnh Hoài Nam