(SGTT) - Trên phố ngày đông hửng nắng. Người ta bày bán bên đường nhiều loại củ và mời gọi. Tôi sà vào chọn mua để đem về ăn, hoài nhớ. Một khung trời xưa cũ, những vồng đất len dày ngọn khoai, vạt đậu hiển hiện dội về từ ký ức…
- Hiểu hơn về ‘Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia’ ẩm thực dân tộc Thái
- Gánh bánh canh nấm bà Bảy núp chung cư Nguyễn Thiện Thuật
1. Nhưng khi ngoảnh lại với một vùng tâm tưởng của những ngày mưa lũ ở khúc ruột miền Trung, tôi bỗng nhiên như nhìn thấy miên man ruộng đồng trắng dòng nước bạc. Khoai, lúa, sắn, đậu và đủ thứ hoa màu còn đâu. Đồng bào còn phải gồng mình chống đỡ để bảo toàn sinh mạng trước sức nước chưa từng tưởng tượng, tuôn dốc về từ những đường phân thủy trên cao, khi không còn rừng để ngăn lại.

Buổi sáng, tôi hấp lên vài củ khoai, nắm đậu. Đặt bên cạnh lọ hoa cẩm chướng vừa mới mua về chiều qua. Là bởi, lướt qua tiếng kêu đau thương trên những trang mạng, dội ào ạt vào đầu tưởng chừng đến mức trầm cảm, nên tôi xách xe chạy ra phố trong nỗi bất lực réo gào. Nghĩ rằng, chỉ có một bó hoa lúc này về chưng, để biết đâu có thể bình tâm lại. Và, nguyên cả dãy phố chợ trên đường Lê Văn Thọ (Gò Vấp cũ), loay hoay xuôi ngược mới tìm ra được một bó đỏ rực duy nhất còn lại. Liệu pháp “an nhiên” ấy, dường như có chút kết quả.
Rồi tôi nhớ đến vào quãng thời gian này ở quê nhà ngày trước, lúc những cơn mưa còn rấm rứt như trời khóc trên đầu, che tấm nylon bước ra vườn, cắt những bó ngọn khoai lang. Từng khúc khoảng hai gang tay, uốn lại hình lưỡi câu, gieo xuống những vồng đã vun lên hôm trước. Chỉ vài ngày sau, ở dưới nách lá, mầm khoai trổ ra rồi bò lan dần trên vồng phủ kín. Củ lớn dần, lá xanh ngọn mướt mát. Cùng với bồ lúa còn ít ỏi xay giã nấu thành cơm, khoai là cách thức chống đói vô cùng hiệu quả. Khoai còn tơ lá, ngắt vào luộc chấm với mắm ruốc, đúng nghĩa câu “đói ăn rau, đau uống thuốc”. Đến mùa thu hoạch, mới ăn được củ. Trong gió rét, củ khoai luộc lên còn ấm nóng cũng là cách dằn bụng để con trẻ đến trường, người lớn ra đồng. Đành vậy, để qua một ngày!
Ký ức ấy, hầu như lứa cùng thế hệ với tôi, đều trải.
2. Một hôm, tôi ngồi cùng với người bạn ôn chuyện quê nhà. Bạn kể 14 tuổi, rời miền Trung đi kinh tế mới ở miệt Lộc Ninh (Bình Phước cũ). Nhà sát biên giới nhưng đất đỏ ba zan cực kỳ tốt, chỉ cần cắt ngọn khoai, chặt đốt cây sắn (mì) gieo cắm xuống. Ngoảnh đi ngoảnh lại là tươi tốt xanh um. Cái ăn của những năm tháng ấy là vậy, nhờ vào khoai sắn mà lớn lên cùng với cuộc đời. Khác với ở ngoài quê, vùng đồng bằng thấp trũng, đất ít người đông phải lận đận qua những năm tháng bao cấp đói rét. Cứu cánh cho đời sống lúc ấy là đất đai để canh tác, mưa thuận gió hòa. Có ở đâu có đủ hai yếu tố ấy bằng được xứ miền Đông Nam bộ?
Khi nghe bạn kể, tôi lại nhớ chuyến đi đầu đời của mình vào miền Nam năm 1984. Mùa hè, khi xếp lại sách vở của đời sinh viên năm thứ nhất, tôi lên xe xuôi Nam. Chuyến đi đầy trắc trở xe tàu, đến nỗi sau này khi xem lại phim Ai xuôi vạn lý lại có liên tưởng vu vơ. Nhưng khi vào đến Đồng Nai thăm bà con, điều trắc trở ấy chóng quên trong tôi khi được mục sở thị đất đai bạt ngàn, tươi xanh ngăn ngắt. Mùa mưa ầm ào dữ dội, đất bết dính chân nhưng vườn tược cây trái khoai sắn dồi dào. Sinh lực ấy, của miền đất thuận hòa mưa nắng khiến cho tôi khi trở lại quê nhà một tháng sau đó, cứ mãi vấn vương trong ý nghĩ.
*
* *
Vì vậy, cái sự mua về để “ăn chơi” vài thứ nông sản mà người ta đem về bán giữa phố phường Sài Gòn, lại thức dậy trong tôi bao kỷ niệm. Cũng như tôi và bạn bè những năm tháng đại học ở Huế, bên cạnh cư xá sinh viên của trường nào hầu như cũng đều có vài quán bán hai loại: khoai và sắn. Loại thực phẩm rẻ nhất, vừa túi tiền nhất hay được các cô cậu tìm đến để dằn cơn đói. Đến nỗi, bốn năm học xong ra trường đi khắp nơi, mấy chục năm sau đứa nào cũng vẫn nhớ quán ấy nằm ở đâu, chủ quán là dì X, dì Y và lòng lặng thầm cảm ơn các dì đã “dìu” mình đi qua những ngày tháng đó!
Và tôi hiểu vì sao trên vệ đường, bên từng đống khoai sắn vun đầy mình lại có chút ngẩn ngơ!














