(SGTT) - Việt Nam cần hơn 135 tỉ đô la Mỹ cho chuyển dịch năng lượng đến năm 2030. Tuy nhiên, nhiều rào cản pháp lý, chính sách thiếu ổn định và thiếu tiêu chuẩn xanh khiến nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn còn dè chừng.
- Sẽ hình thành hai trung tâm công nghiệp năng lượng tái tạo liên vùng
- Cà Mau thông qua chủ trương đầu tư 14 dự án năng lượng tái tạo

Dù được đánh giá là một trong những điểm đến đầu tư hấp dẫn nhất khu vực Đông Nam Á về năng lượng tái tạo nhưng Việt Nam vẫn gặp nhiều thách thức liên quan đến công nghệ, nhân lực, chính sách và cơ chế tài chính để thúc đẩy phát triển lĩnh vực này. Năng lượng tái tạo là năng lượng được khai thác từ nước, gió, ánh sáng mặt trời, địa nhiệt, sóng biển, nhiên liệu sinh học…
Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới (WB), nhu cầu tài chính cho chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam có thể lên tới hơn 135 tỉ đô la Mỹ trong giai đoạn 2021-2030, trong đó khoảng 75% cần đến từ khu vực tư nhân. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2019-2021, tổng đầu tư vào năng lượng sạch mới chỉ đạt khoảng 11,3 tỉ đô la. Điều này cho thấy một khoảng cách rất lớn giữa mục tiêu và khả năng huy động vốn thực tế.
Trong tài liệu của ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó chủ tịch Hiệp hội năng lượng Việt Nam tại Diễn đàn “Công nghệ năng lượng mới trong kỷ nguyên mới” tổ chức tại Hà Nội sáng 29-7, thì chính sách và cơ chế tài chính hiện nay thiếu hấp dẫn là nguyên nhân chính khiến Việt Nam chưa thu hút được dòng vốn mạnh mẽ. Việc không nhất quán trong chính sách điều chỉnh giá điện hồi tố gây lo ngại cho nhà đầu tư.
Các rào cản về chính sách và pháp lý không chỉ ảnh hưởng đến dòng vốn tư nhân mà còn khiến các thể chế tài chính quốc tế dè dặt hơn trong việc cấp vốn hoặc bảo lãnh cho các dự án năng lượng sạch ở Việt Nam.
Ông cho rằng chi phí đầu tư ban đầu cao, thiếu tiêu chuẩn phân loại xanh và cơ chế cắt giảm công suất điện tái tạo cũng đang làm gia tăng rủi ro tài chính cho nhà đầu tư.
Ngoài ra, việc thiếu tiêu chuẩn phân loại xanh (taxonomy) thống nhất và yêu cầu sử dụng trọng tài nội địa thay vì quốc tế trong hợp đồng cũng là yếu tố làm giảm tính hấp dẫn của thị trường Việt Nam đối với các nhà đầu tư quốc tế.
Hiện ngành năng lượng tái tạo còn thiếu nhân lực chất lượng cao, năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) còn yếu. Năm 2023, chi tiêu cho R&D chỉ chiếm 0,4% GDP (xếp thứ 66 toàn cầu), thấp hơn nhiều so với khu vực. Điều này làm cản trở khả năng làm chủ công nghệ và đổi mới trong nước.

Để thúc đẩy quá trình chuyển dịch năng lượng tái tạo bền vững, ông Tuấn đề xuất Việt Nam cần ưu tiên hoàn thiện khung chính sách ổn định, minh bạch, đặc biệt là cơ chế giá và tiêu chuẩn phân loại xanh quốc gia. Bên cạnh đó, đầu tư cấp bách vào hạ tầng truyền tải và hệ thống lưu trữ năng lượng là yêu cầu cấp thiết để tránh tình trạng cắt giảm công suất như thời gian qua.
Về dài hạn, nước ta cần tối ưu hóa các cơ chế tài chính thông qua các ưu đãi rõ ràng, hấp dẫn và lâu dài; đồng thời tận dụng tối đa các nguồn vốn từ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP), khu vực tư nhân và mô hình đối tác công tư (PPP).
Bên cạnh đó, các trường đại học cần mở rộng, nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo kỹ sư, kỹ thuật viên và thu hút, giữ chân các chuyên gia. Cùng với đó là tăng cường đầu tư vào R&D nội địa, khuyến khích hợp tác giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp…